Sự bất mãn đang tăng lên ở một số nền kinh tế khối OECD hậu phong tỏa vì đại dịch. Các hộ gia đình nói rằng các công ty đang tranh thủ tăng giá, góp phần đẩy tỷ lệ lạm phát trung bình ở các nước giàu lên 6,6% năm qua.
Các công ty thì gạt những cáo buộc này sang một bên và tin rằng, họ mới thực sự là phía chịu thiệt. Họ phàn nàn nhân viên đang đòi hỏi mức lương ngày càng cao. Đầu tháng này, Andrew Bailey, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh, đã gây tranh cãi bằng cách gợi ý rằng người lao động nên tiết chế yêu cầu về lương của họ - ngay cả khi ông đã thất bại trong việc yêu cầu các công ty không tăng giá.
Nói một cách tổng thể, sản lượng kinh tế phải chuyển đến chủ sở hữu vốn, dưới dạng lợi nhuận, cổ tức và tiền thuê; hoặc cho lao động, dưới dạng tiền lương, tiền công và quyền lợi. Các nhà kinh tế gọi đây là tỷ trọng "vốn" hoặc "lao động" trong GDP. Trong đó, "vốn" đại diện cho "tiền" của giới chủ doanh, các công ty; còn "lao động" ám chỉ thu nhập của người lao động.
Một người tiêu dùng thanh toán hàng hóa tại Nice, Pháp ngày 3/4/2019. Ảnh: Reuters
Bên nào có ưu thế trong nền kinh tế hậu phong tỏa?
The Economist đã tổng hợp một loạt các chỉ số để trả lời câu hỏi này. Đầu tiên, họ tính toán một thước đo tần suất cao về tỷ trọng vốn - lao động trên 30 quốc gia chủ yếu là giàu có, thuộc khối OECD. Năm 2020, tổng tỷ trọng "lao động" của nhóm này đã tăng vọt. Điều này phần lớn là do các công ty tiếp tục trả lương cho người dân - nhờ các chương trình kích thích của chính phủ - ngay cả khi GDP giảm. Tóm lại, lợi thế giai đoạn này thuộc về người lao động.
Tuy nhiên, gần đây hơn, cuộc chiến đã chuyển sang hướng có lợi cho bên "vốn". Kể từ khi đạt đỉnh vào năm 2020, tỷ trọng "lao động" của nhóm các nước giàu đã giảm 2,3 điểm phần trăm. Tuy nhiên, dữ liệu chỉ tính đến tháng 9/2021 và hầu hết nhà kinh tế lập luận rằng tỷ lệ chia sẻ của "lao động" không phải là thước đo hoàn hảo về công bằng kinh tế, vì nó rất khó đo lường. Các bằng chứng kể từ đó cho thấy các quốc gia rơi vào một trong ba nhóm.
Nhóm đầu tiên là nước Anh. Tại đây, tăng trưởng tiền lương cơ bản nằm trong mức 5% một năm, nhanh bất thường theo tiêu chuẩn của các nước giàu. Nhưng các tập đoàn hầu như không có nhiều quyền định giá. Có nghĩa là họ đang phải vật lộn để bù đắp việc bị đội chi phí cao hơn bằng việc tăng giá cao hơn.
Theo nghiên cứu, ước tính lợi nhuận danh nghĩa tính bằng bảng Anh trên mỗi đơn vị hàng hóa và dịch vụ bán ra chỉ tương đương giai đoạn đầu năm 2019, ngay cả khi chi phí lao động đang tăng khoảng 3% mỗi năm. "Lao động" dường như đang chiến thắng so với "vốn".
Nhóm thứ hai bao gồm hầu hết quốc gia giàu có khác bên ngoài châu Mỹ. Ở đó, cả "lao động" và "vốn" hầu như không thể chiến thắng. Sau khi khắc phục những ảnh hưởng liên quan đến đại dịch, tăng trưởng tiền lương của Nhật Bản đang chậm lại xuống dưới 1% một năm, theo dữ liệu từ Goldman Sachs.
Tốc độ tăng tiền lương ở Italy và Tây Ban Nha đang giảm dần, trong khi tăng trưởng tiền lương ở Australia, Pháp và Đức vẫn thấp hơn nhiều so với trước đại dịch. Vì vậy, người lao động ở những nơi này không thực sự là nguồn cơn của lạm phát.
Nhưng doanh nghiệp cũng không hưởng lợi gì nhiều. Ở châu Âu, tỷ suất lợi nhuận trước thuế đã tăng trong những tháng gần đây nhưng vẫn thấp hơn mức trước đại dịch. Tại Nhật Bản, lợi nhuận trước thuế của các công ty quy mô vừa và lớn đã trở lại mức trước đại dịch. Tuy nhiên, lợi nhuận của các công ty nhỏ hơn vẫn thấp.
Nhóm thứ ba là Mỹ. Ở đây tăng trưởng tiền lương rất nhanh, khoảng 5% một năm. Nhưng kết quả tài chính gần đây nhất của các công ty niêm yết lớn cho thấy, họ cũng giữ tỷ suất lợi nhuận còn tốt hơn so với dự kiến của các nhà phân tích. Một loạt đợt phát tiền thời gian qua giúp các hộ gia đình Mỹ hấp thụ mức giá cao hơn mà các công ty này áp đặt. Vào đầu tháng 2, Amazon cho biết họ sẽ tăng giá gói thành viên Prime lên 17% ở Mỹ dù ở các khu vực khác trên thế giới thì không thể làm được việc này.
Một số công ty đang tăng tỷ suất lợi nhuận của họ mặc dù chi phí tăng cao. Tyson, một nhà sản xuất thịt của Mỹ, báo cáo rằng chi phí đầu vào của họ đã tăng 18% trong quý gần đây nhất so với một năm trước đó. Vì vậy, họ tăng 19,6% trong giá bán trung bình và tăng 40% trong lợi nhuận kinh doanh. Họ nói rằng giá thịt leo thang không làm giảm nhu cầu.
Dario Perkins, Giám đốc công ty dịch vụ tài chính TS Lombard, phân tích mức tăng giá của Mỹ kể từ khi bắt đầu đại dịch thành chi phí lao động và lợi nhuận của các công ty.
Kết quả, ông nhận thấy tiền lương đang tăng, nhưng dù sao thì việc tăng giá cũng là nguyên nhân gây ra hơn 70% lạm phát kể từ cuối năm 2019. Trong một báo cáo gần đây, các nhà phân tích tại Bank of America cho rằng sức mạnh định giá lớn hơn giúp giải thích cổ phiếu của Mỹ có tỷ lệ thu nhập trên giá cao hơn so với cổ phiếu của châu Âu.
Câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Một số nhà kinh tế tự hỏi liệu người lao động có đòi hỏi mức lương cao hơn nữa để bù đắp cho giá cả hàng hóa cao hơn hay không. Có một số bằng chứng về điều này ở Mỹ và Anh, nơi tăng trưởng tiền lương đang khá nhanh.
Kỳ vọng của các doanh nghiệp với việc giải quyết tiền lương trong tương lai vẫn khá thận trọng, mặc dù điều đó có thể sớm thay đổi. Nếu tiền lương bắt đầu tăng nhanh hơn, chu kỳ tăng giá và bù đắp nhu cầu tiền lương có thể bắt đầu lại. Chẳng bao lâu nữa, nền kinh tế hậu phong tỏa có thể giống như nơi mà không ai có thể hài lòng.